Tổ chức tuyển chọn bổ sung lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc năm 2025

           Nhằm hỗ trợ tạo việc làm mới và nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động được tiếp cận học tập, nắm bắt công nghệ tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh (nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp) của Hàn Quốc, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các địa phương; Ngày 01/8/2025 Sở Nội vụ tỉnh Ninh Bình ban hành Kế hoạch tổ chức tuyển chọn bổ sung lao đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc năm 2025.động đi làm việc thời vụ tại quận Gochang-gun, tỉnh Jeollabuk và quận Bonghwagun, tỉnh Gyeongsangbuk, Hàn Quốc năm 2025.           Theo đó, quá trình triển khai tổ chức tuyển chọn chặt chẽ, có trách nhiệm, công khai, minh bạch, hiệu quả, đảm bảo về số lượng và chất lượng lao động tuyển chọn, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động và đúng quy định của pháp luật hai nước với nội dung cụ thể sau:1. Đối tượng và tiêu chuẩnLà công dân cư trú dài hạn tại tỉnh Ninh Bình (có thời hạn cư trú tối thiểu từ 5 năm). Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Có sức khỏe để đi làm việc ở nước ngoài theo quy định thỏa thuận của Việt Nam và Hàn Quốc. Được cơ sở y tế, bệnh viện có chức năng, nhà nước cấp phép, khám sức khỏe cho người đi nước ngoài kết luận đủ tiêu chuẩn về sức khỏe.Độ tuổi: Từ 30 đến dưới 45 tuổi (sinh từ ngày 20/4/1995 đến 20/4/1980).Giới tính: Nam, Nữ.Nghề nghiệp: Người làm nghề nông nghiệp.Công việc: Thu hoạch, trồng trọt và quản lý hoa màu nông nghiệp như: Dưa lưới, khoai lang, ớt, dưa hấu. khoai tây, rau xanh…Địa điểm làm việc: Quận Gochang-gun, tỉnh Jeollabuk và quận Bonghwagun, tỉnh Gyeongsangbuk, Hàn Quốc.Thời gian làm việc tại Hàn Quốc: 03-05 tháng (nếu gia hạn thời gian làm việc của người lao động Quận Gochang-gun và quận Bonghwa-gun sẽ có văn bản thông báo).Không tuyển chọn: Người có tiền án, tiền sự, đã từng cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc, người bị bệnh truyền nhiễm, người bị bệnh thần kinh, bệnh tim mạch, máu, huyết áp, tiểu đường, bị bệnh về sắc giác, xương khớp và các bệnh nội tạng như sỏi thận, sỏi mật… người sử dụng các chất gây nghiện, phụ nữ mang thai hoặc sản phụ mới sinh con và đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, những người thuộc diện cấm không được xuất cảnh, tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật. Người lao động có thân nhân (bố, mẹ, anh, chị, em ruột) đang cư trú, làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc.Không tiếp nhận hồ sơ đối với những trường hợp đã đi lao động thời vụ trước năm 2025 mà không chăm chỉ, không thật thà, bị chủ sử dụng lao động phản ánh. Người lao động có bố, mẹ, anh, chị, em đang cư trú, làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc.2. Hồ sơ đăng ký gồm:- Căn cước công dân bản photo có chứng thực: 03 bản.- Ảnh chân dung: 4 ảnh 4x6; 4 ảnh 3,5x4,5 (ảnh nền trắng, áo sơ mi trắng có cổ, ghi rõ họ tên, năm sinh sau ảnh).- Giấy khai sinh bản sao hoặc bản photo có chứng thực: 03 bản.- Sơ yếu lý lịch có xác nhận của địa phương: 03 bản- Lý lịch tư pháp mẫu số 2: 02 bản chính; 01 bản photo có chứng thực (được nộp bổ sung từ ngày 11/8 - 22/8 năm 2025).- Giấy xác nhận lao động có kinh nghiệm làm nông nghiệp tại địa phương của UBND xã/phường/thị trấn (từ 05 năm trở lên): 03 bản.- Hộ chiếu bản photo: 03 bản (lao động mang kèm bản chính để đối chiếu bản photo; được nộp bổ sung từ ngày 11/8 - 22/8 năm 2025).Lưu ý: Tất cả giấy tờ nêu trên được đựng trong 02 túi hồ sơ, bên ngoài ghi rõ thành phần hồ sơ, họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ, số điện thoại của lao động và thân nhân (khi cần liên hệ). Sở Nội vụ chỉ tiếp nhận hồ sơ trực tiếp của người lao động tại trụ sở của đơn vị, không nhận hồ sơ qua bất kể hình thức, địa điểm nào khác.Trước khi xuất cảnh sang quận Gochang-gun và quận Bonghwa-gun, Hàn Quốc người lao động, gia đình người lao động phải ký cam kết bảo lãnh.Đối với người lao động không trúng tuyển Sở Nội vụ không trả lại hồ sơ3. Thời gian, địa điểm tiếp nhận hồ sơ năm 2025:Thời gian: 02 ngày, từ ngày 09/8 đến ngày 10/8 năm 2025 (Sáng từ 8h30’ đến 11h30’; Chiều từ 14h00’ đến 17h00’) .Địa điểm: Tầng 4, Sở Nội vụ tỉnh Ninh Bình (Số 2A đường Phạm Hồng Thái, phường Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).

Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Vũ Dương lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đã diễn ra thành công tốt đẹp

Sáng ngày 14/8, tại nhà văn hóa trung tâm, Đảng bộ xã Vũ Dương đã long trọng tổ chức Khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Vũ Dương lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025 – 2030.Đồng chí Nguyễn Toàn Thắng, Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy dự và chỉ đạo Đại hội.Dự Đại hội còn có các đồng chí: Nguyễn Hùng Mạnh - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND xã Ý Yên; Hoà thượng Thích Quảng Hà - Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Ninh Bình; Đinh Văn Phương- Giám đốc BQL Dự án Đầu tư xây dựng tỉnh; Phạm Văn Long - Phó Giám đốc sở Tài chính tỉnh; Ngô Văn Sơn - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh; Các đại biểu Lãnh đạo, chuyên viên các phòng nghiệp vụ ban tổ chức Tỉnh uỷ, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Ban Dân vận và Tuyên giáo Tỉnh ủy, UBKT Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh uỷ, các Sở, ban, ngành của tỉnh; Các đồng chí nguyên là lãnh đạo của huyện Ý Yên qua các thời kỳ nghỉ hưu trên địa bàn xã; đại diện Thường trực Đảng uỷ các xã: Yên Đồng, Phong Doanh, Tân Minh, Vũ Dương, Vạn Thắng, Yên Cường; các đồng chí nguyên Bí thư Đảng uỷ các xã đã nghỉ hưu qua các thời kỳ; đại diện các doanh nghiệp; đại diện chức sắc các tôn giáo trên địa bàn xã và 220 đại biểu là những đảng viên ưu tú, tiêu biểu, đại diện cho 1.160 đảng viên của 47 tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ xã Vũ Dương.Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Vũ Dương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 diễn ra trong 2 ngày 13-14/8/2025. Tại phiên trù bị Đại hội đã bầu đoàn chủ tịch gồm các đồng chí: Bùi Thị Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã; Trương Quang Đông, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; Trần Bình Định, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã; Nguyễn Minh Đạo, UVBTVĐU, Trưởng Công an xã; Phạm Đình Thanh, UVBTVĐU, Phó Chủ tịch HĐND xã.Phát biểu khai mạc, đồng chí Bùi Thị Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã nhấn mạnh tầm quan trọng của Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Vũ Dương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030. Đại hội lần này có tác động to lớn đến quá trình xây dựng và phát triển của xã Vũ Dương trong những năm tới. Vì vậy, mỗi đại biểu dự Đại hội tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng bộ, trước Nhân dân, tích cực tham gia vào các nội dung, chương trình của Đại hội, nhất là thảo luận thông qua các mục tiêu, nhiệm vụ, các khâu đột phá và giải pháp chủ yếu của nhiệm kỳ 2025 - 2030; quyết tâm xây dựng quê hương Vũ Dương phát triển toàn diện, vững bước trong kỷ nguyên mới.Đảng bộ xã Vũ Dương được thành lập mới đi vào hoạt động từ 01/7/2025 trên cơ sở sáp nhập Đảng bộ 4 xã Yên Bình, Yên Ninh, Yên Mỹ, Yên Dương. Đảng bộ có 47 tổ chức đảng trực thuộc với 1.160 đảng viên.Nhiệm kỳ 2020 – 2025, với sự đồng lòng, thống nhất của toàn Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân địa phương, xã Vũ Dương đã nỗ lực vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ. Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xã Vũ Dương tập trung xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu kết hợp cơ cấu lại nông nghiệp tạo những bước phát triển quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Thực hiện mối liên kết “bốn nhà” ngày càng chặt chẽ tạo điều kiện gắn kết giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm góp phần làm tăng năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tổng diện tích gieo trồng của toàn xã là 3.330ha/năm, sản lượng 18.813 tấn, giá trị đạt trên 179 tỷ đồng. Sản xuất cây vụ Đông cũng là một trong những thế mạnh của địa phương mang lại nguồn thu nhập khá cho bà con nông dân. Bình quân vụ Đông cho thu nhập từ 80-100 triệu đồng/ha. Trong phong trào xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu đã khích lệ nhiều cá nhân, tập thể sáng tạo, mạnh dạn sản xuất kinh doanh, tạo thương hiệu cho các sản phẩm nông sản của địa phương. Hiện, toàn xã có 8 sản phẩm OCOP được đánh giá 3 sao có sức cạnh tranh trên thị trường nông sản xanh, sạch. Diện tích nuôi trồng thủy sản được mở rộng, đặc biệt ở vùng trũng, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 179,5 ha, giá trị thu nhập đạt 26,9 tỷ đồng.Lĩnh vực công nghiệp, TTCN, hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển rộng khắp. Toàn xã có trên 500 cơ sở TTCN tạo công ăn việc làm cho trên 10.000 lao động. Cụm công nghiệp Yên Dương, cụm công nghiệp Yên Ninh, công ty may Santa Clara và các điểm công nghiệp nhỏ tại địa bàn thu hút trên 2.500 lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế của địa phương.Kinh tế phát triển, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vũ Dương đồng lòng xây dựng nông thôn mới nâng cao, thôn/ xóm kiểu mẫu. Diện mạo của quê hương Vũ Dương ngày một khởi sắc, đời sống của Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Văn hóa – xã hội đạt được những tiến bộ quan trọng. Hoạt động văn hóa, thể thao, giáo dục – đào tạo có sự chuyển biến về chất lượng giáo dục toàn diện; Chăm lo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chăm sóc người có công, giảm nghèo, giải quyết việc làm; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Đến nay, toàn xã đã 14/28 thôn đạt thôn, xóm đạt NTM kiểu mẫu.Bên cạnh đó, công tác quốc phòng, an ninh được củng cố; cải cách hành chính, chuyển đổi số có nhiều chuyển biến tích cực, việc áp dụng mô hình chính quyền 2 cấp kết hợp chuyển đổi số đã và đang từng bước đi vào ổn định, đảm bảo thông suốt, hiệu lực, hiệu quả.Với phương châm “Đoàn kết – Dân chủ - Kỷ cương – Đột phá – Phát triển”, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Vũ Dương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 xác định chủ đề: Tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng; đoàn kết, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thu hút đầu tư, phát triển các cụm công nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 xã Vũ Dương có kinh tế phát triển khá.Ngoài 17 chỉ tiêu, Đảng bộ xã Vũ Dương tập trung thực hiện 3 khâu đột phá, 3 chương trình trọng tâm của nhiệm kỳ mới trong đó nâng cao sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Tăng cường ứng dụng chuyển đổi số trên các lĩnh vực, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và phát triển hạ tầng kinh tế đồng bộ, hiện đại theo quy hoạch. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và phát triển hạ tầng kinh tế đồng bộ, hiện đại theo quy hoạch.Phát biểu chỉ đạo và tặng hoa chúc mừng Đại hội, đồng chí Nguyễn Toàn Thắng, Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy ghi nhận, biểu dương những kết quả Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vũ Dương đã đạt được trong nhiệm kỳ qua. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành quả đó, đồng chí Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy nhấn mạnh Đảng bộ xã Vũ Dương cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ then chốt; phát huy, khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của địa phương góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục vận hành tốt bộ máy chính quyền 2 cấp, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số thông suốt, hiệu lực, hiệu quả tạo niềm tin đối với Nhân dân với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Đại hội đã công bố các Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc chỉ định Ban chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy; công tác cán bộ trong sắp xếp bộ máy. Theo đó, Ban chấp hành Đảng bộ xã có 24 đồng chí, Ban Thường vụ có 11 đồng chí. Đồng chí Bùi Thị Hòa giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; đồng chí Trương Quang Đông và Trần Bình Định giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy xã Vũ Dương, nhiệm kỳ 2025 – 2030.Sau 2 ngày làm việc, trên tinh thần dân chủ, trách nhiệm, khẩn trương, trí tuệ, Đại hội đã bầu ra đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030; thông qua các Nghị quyết của Đại hội với 100% đại biểu tán thành./(Một số hình ảnh khác tại đại hội) 

Công khai tiến độ của tỉnh Ninh Bình

Kỳ họp thứ Hai, HĐND xã Vũ Dương khóa I, nhiệm kỳ 2021-2026 thành công tốt đẹp

Sáng ngày 8/8, HĐND xã Vũ Dương (Ninh Bình) khóa I, nhiệm kỳ 2021-2026 tổ chức kỳ họp thứ 2 (kỳ họp Chuyên đề) để xem xét, quyết định nhiều nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền. Chủ tọa kỳ họp có các đồng chí: Bùi Thị Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã; Phạm Đình Thanh, Ủy viên BTV Đảng ủy, Phó Chủ tịch HĐND xã Vũ Dương.Dự kỳ họp có đồng chí Trần Bình Định, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã, các phòng ban chuyên môn của xã và 94/99 đại biểu HĐND xã Vũ Dương khóa I, nhiệm kỳ 2021-2026.Phát biểu khai mạc kỳ họp, đồng chí Bùi Thị Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Vũ Dương nhấn mạnh: Kỳ họp thứ Hai (kỳ họp Chuyên đề) được tổ chức trong bối cảnh xã Vũ Dương vừa hoàn tất sắp xếp, ổn định tổ chức sau sáp nhập, đang tập trung triển khai nhiều nhiệm vụ trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội. Kỳ họp lần này có ý nghĩa quan trọng, nhằm đánh giá khách quan, toàn diện tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; xem xét báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ và giải pháp năm 2025 của Thường trực HĐND xã, các Ban HĐND xã. Qua đó, đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và xem xét quyết nghị một số nội dung thuộc thẩm quyền. Vì vậy, để hoàn thành các nội dung, chương trình đề ra, đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã đề nghị các vị đại biểu HĐND xã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, nghiên cứu kỹ nội dung của kỳ họp, quyết nghị các nội dung quan trọng của kỳ họp, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 trên địa bàn.Theo đánh giá tại kỳ họp, trong 6 tháng đầu năm 2025, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, điều hành linh hoạt của UBND xã và giám sát chặt chẽ của HĐND xã, kinh tế – xã hội của địa phương tiếp tục ổn định và phát triển; quốc phòng – an ninh đảm bảo; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện.Bên cạnh những kết quả đạt được, nghiêm túc nhìn nhận một số hạn chế, HĐND xã Vũ Dương đã quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với các chỉ tiêu chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng giá trị sản phẩm GPDP trên địa bàn tăng 7-8%; thu ngân sách trên địa bàn đạt gần 86 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 61 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều dưới 1,71%; tỷ lệ bao phủ BHYT 95% trở lên; tạo việc làm mới cho trên 500 lao động; tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch từ 95% trở lên; tỷ lệ chất thải rắn được thu gom trên 91%; giao quân đạt 100%; đảm bảo an ninh chính trị, an ninh nông thôn, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.Sau khi thông qua: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; Các Tờ trình của Thường trực HĐND xã, các Ban HĐND xã và của UBND xã; Quy chế làm việc của HĐND xã, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND xã Vũ Dương khóa I, nhiệm kỳ 2021-2026; Chương trình công tác của Thường trực HĐND xã 6 tháng cuối năm; báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND xã và thông báo về việc phân chia Tổ đại biểu HĐND xã; kỳ họp cũng dành thời gian để đại biểu tập trung thảo luận đóng góp ý kiến về các vấn đề trọng tâm ở địa phương.Dựa trên các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND xã, tại kỳ họp, đồng chí Trần Bình Định, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Vũ Dương đã tiếp thu và đồng thời giải trình, làm rõ các nội dung thuộc trách nhiệm của UBND xã.Với tinh thần làm việc khẩn trương, tập trung, nghiêm túc, kỳ họp thứ Hai (kỳ họp Chuyên đề) HĐND xã Vũ Dương khóa I, nhiệm kỳ 2021-2026 đã thành công tốt đẹp, hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình theo kế hoạch đề ra. 100% đại biểu HĐND xã đã biểu quyết nhất trí thông qua 5 Nghị quyết của kỳ họp./. (Một số hình ảnh tại kỳ họp)  

Xã Vũ Dương tổ chức sự kiện “Cùng Việt Nam tiến bước”

Chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025), 80 năm Quốc khánh 2/9 (2/9/1945 - 2/9/2025); 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân (19/8/1945 - 19/8/2025) và 20 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005 - 19/8/2025), thực hiện kế hoạch phối hợp giữa Bộ Công an và Báo Nhân dân; được sự đồng ý của Thường Đảng ủy, Lãnh đạo UBND xã Vũ Dương, Công an xã Vũ Dương đã tổ chức sự kiện “Cùng Việt Nam tiến bước” từ 5 giờ 30 phút đến 7 giờ, ngày 16/8/2025.Tham dự sự kiện có các đồng chí: Bùi Thị Hòa, Bí Thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Vũ Dương; Trương Quang Đông, Phó bí thư thường trực Đảng ủy; Trần Bình Định, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Cùng các đồng chí Lãnh đạo UBND, UB MTTQ Việt Nam xã, Chỉ huy Công an xã và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức ban, ngành tổ chức chính trị xã hội, Nhân dân trên địa bàn xã Vũ Dương.Sự kiện “Cùng Việt Nam tiến bước” do Công an tỉnh Ninh Bình phối hợp Văn phòng Đại diện Báo Nhân dân tại tỉnh Ninh Bình phát động nhằm khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết và khát vọng phát triển quê hương, đất nước trong giai đoạn mới; lan tỏa niềm tin, niềm tự hào và ý chí vươn lên mạnh mẽ trong toàn xã hội. Đồng thời, hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và phong trào “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; xây dựng thói quen đi bộ, góp phần giảm khí thải cacbon ra môi trường.Đây cũng là hành trình “Một tỷ bước chân tiến vào kỷ nguyên mới” không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển bền vững, mà còn là lời hiệu triệu để cán bộ, chiến sỹ Công an toàn tỉnh Ninh Bình nói chung, cán bộ, chiến sĩ công an xã Vũ Dương và mỗi người dân nói riêng, thể hiện rõ vai trò tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm vì Nhân dân phục vụ, góp phần kết nối tình đoàn kết dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi xanh./.

Đảm bảo vận hành thông suốt Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính

Vận hành thử nghiệm Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Yên Từ (mới). Ảnh: Trường GiangNgay sau khi có chỉ đạo về việc sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức mô hình chính quyền địa phương 2 cấp của Trung ương, UBND tỉnh Ninh Bình đã nhanh chóng quán triệt và ban hành các văn bản chỉ đạo liên quan đến tổ chức lại hệ thống thông tin phục vụ chính quyền số. Trên cơ sở đó, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Bình chủ trì, phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Nam, Nam Định thảo luận, thống nhất tham mưu, trình UBND tỉnh ban hành phương án lựa chọn các Hệ thống thông tin dùng chung. Nguyên tắc được đặt ra là “lựa chọn một hệ thống tốt nhất” thay vì “tích hợp cơ học”, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai, đồng thời bảo đảm các hệ thống thiết yếu sẵn sàng hoạt động từ ngày đầu vận hành mô hình mới. Quá trình triển khai thực hiện đã có sự phối hợp đồng bộ giữa các Sở, ngành, địa phương và các đối tác công nghệ lớn như VNPT, Viettel để giải quyết nhanh các vấn đề phát sinh và hỗ trợ kỹ thuật kịp thời cho cơ sở.Đến thời điểm hiện tại, các Hệ thống thông tin dùng chung thiết yếu đã được rà soát, tổ chức lại một cách khoa học, bảo đảm sẵn sàng đưa vào vận hành chính thức. Trong đó, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC được lựa chọn triển khai là hệ thống hiện hành của tỉnh Ninh Bình, vốn được đầu tư theo hình thức thuê dịch vụ công nghệ thông tin, có nhiều ưu điểm vượt trội, đồng thời được nhà cung cấp hỗ trợ nâng cấp, điều chỉnh miễn phí. Tính đến ngày 27/6/2025, toàn bộ 1.616 dịch vụ công trực tuyến của tỉnh đã được tích hợp thành công lên Cổng Dịch vụ công quốc gia; đồng thời tỉnh đã công bố đầy đủ 292/292 danh mục thủ tục hành chính mới theo mô hình 2 cấp.Hệ thống quản lý văn bản và điều hành của tỉnh cũng đã được kiểm nghiệm đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, bảo đảm liên thông giữa các cấp từ tỉnh đến xã. Việc cấp phát chữ ký số cho cán bộ, lãnh đạo các cấp đã hoàn tất, bảo đảm luồng gửi, nhận văn bản điện tử thông suốt, kết nối với Trục liên thông văn bản quốc gia. Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được triển khai theo hướng sử dụng song song hai nền tảng: Viettel phục vụ khối chính quyền, VNPT phục vụ khối Đảng và đoàn thể. Cách làm này không chỉ giúp tối ưu hạ tầng sẵn có, mà còn tránh lãng phí nguồn lực.Kết quả kiểm tra tại các điểm cầu cho thấy, thiết bị đầu cuối đã được trang bị đầy đủ, băng thông đường truyền bảo đảm, hình ảnh, âm thanh rõ ràng, ổn định. Việc tổ chức họp thử giữa tỉnh và xã, cũng như giữa các xã với nhau, đều đạt kết quả tốt, bảo đảm khả năng tổ chức các cuộc họp, giao ban, chỉ đạo điều hành ngay từ ngày đầu thực hiện mô hình mới.Các hệ thống thiết yếu khác như Hệ thống thông tin báo cáo, Nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu, Cổng Thông tin điện tử tỉnh cũng đã được nâng cấp đồng bộ. Tỉnh đã thực hiện rà soát toàn diện, khắc phục các lỗi kỹ thuật, đồng thời đảm bảo chuẩn hóa quy trình, cấu trúc dữ liệu theo hướng dùng chung, liên thông và tích hợp.Cán bộ Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Kim Đông giải quyết thủ tục hành chính cho người dân. Ảnh: Hồng GiangCùng với việc hoàn thiện về hạ tầng công nghệ, tỉnh Ninh Bình rất chú trọng đến yếu tố con người. Cán bộ, công chức được bố trí làm việc tại Trung tâm phục vụ hành chính công các xã, phường mới đã được tham gia các lớp tập huấn chuyên sâu về vận hành hệ thống, sử dụng chữ ký số, xử lý tình huống kỹ thuật cũng như cập nhật dữ liệu và giải quyết TTHC theo quy trình mới. Bên cạnh đó, Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đã thiết lập 3 đường dây nóng, hoạt động liên tục để tư vấn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi.Để đánh giá tổng thể khả năng vận hành của hệ thống trước khi đi vào chính thức, tỉnh Ninh Bình đã tổ chức vận hành thử nghiệm mô hình chính quyền điện tử 2 cấp tại 7 xã, phường mới vào ngày 20/6/2025. Buổi thử nghiệm được tiến hành theo kịch bản thực tế, với các tình huống giả định sát với hoạt động thường ngày. Đồng chí Tạ Quang Phương, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ cho biết: “Trong lần vận hành thử này, chúng tôi vận hành đồng thời các hệ thống: Quản lý văn bản và điều hành, Thông tin giải quyết TTHC và Hội nghị trực tuyến. Tất cả được thực hiện trong điều kiện thật, với cán bộ thật, quy trình thật. Kết quả cho thấy các chức năng vận hành ổn định, quy trình tiếp nhận, xử lý và trả kết quả hồ sơ hành chính diễn ra trơn tru. Đây là bước chạy đà kỹ lưỡng, tạo nền tảng để vận hành chính thức không gặp trục trặc”.Tham gia vận hành thử nghiệm tại điểm cầu xã Kim Đông, đồng chí Phạm Văn Thi, công chức Tư pháp hộ tịch tại Trung tâm phục vụ hành chính công cho biết: “Quy trình xử lý văn bản và thủ tục hành chính được thực hiện rõ ràng, nhanh gọn. Đặc biệt, với sự hỗ trợ trực tiếp của cán bộ Sở Khoa học và Công nghệ, nhân viên VNPT, chúng tôi không còn lo lắng về việc bị gián đoạn trong ngày đầu triển khai chính thức”.Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, giải pháp công nghệ hợp lý, cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành, địa phương và đơn vị công nghệ, tỉnh Ninh Bình đã sẵn sàng cho việc vận hành Hệ thống thông tin phục vụ chính quyền địa phương 2 cấp một cách thông suốt, hiệu quả. Điều này không chỉ góp phần hiện đại hóa nền hành chính, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị cao của tỉnh trong việc phục vụ người dân và doanh nghiệp nhanh chóng, hiệu quả, minh bạch.

Bài tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025)

         Năm 2025, cả nước hân hoan kỷ niệm 80 năm cách mạng tháng tám thành công và quốc khánh nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/09/2025). Đây là dịp để mỗi người dân Việt Nam cùng nhau ôn lại những những dấu mốc lịch sử chói lọi, khắc sâu công lao của các thế hệ cha ông đã hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, khẳng định ý chí độc lập, tự do và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những sự kiện trọng đại đã làm thay đổi vận mệnh dân tộc, mở ra một trang sử mới huy hoàng trong lịch sử nước nhà.* CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM 1. Bối cảnh lịch sử      Cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với ưu thế áp đảo nghiêng về phe Đồng minh. Tại châu Âu, Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân đội các nước Anh, Mỹ, Pháp, Canađa… liên tiếp giành thắng lợi, giải phóng nhiều quốc gia và tiến vào Béclin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh ở châu Âu kết thúc. Tại châu Á - Thái Bình Dương, quân đội phát xít Nhật rơi vào thế bị bao vây, uy hiếp nặng nề. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai chính thức chấm dứt. Tình hình ấy mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Trung ương Đảng nhận định: đây là thời cơ “ngàn năm có một” để nhân dân ta vùng lên giành lại độc lập. Trong khi quân Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, thực dân Pháp đã rắp tâm quay trở lại, tìm cách dựa vào Đồng minh, còn các thế lực khác cũng bắt đầu can thiệp; nếu không chớp lấy cơ hội này, vận hội dân tộc có thể bị bỏ lỡ. Ngay từ ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn, ra chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp. Ngày 12/3/1945, Trung ương ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, khẳng định: “Đây là thời cơ tốt để nhân dân ta vùng lên giành độc lập”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 16/4, Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo thành lập các Ủy ban dân tộc giải phóng từ Trung ương đến địa phương. Đầu tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo toàn quốc. Ngày 4/6/1945, Khu Giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập. Từ giữa năm 1945, cao trào kháng Nhật cứu nước lan rộng, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần diễn ra mạnh mẽ tại nhiều địa phương trên cả nước. 2. Diễn biến      Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ngay trong ngày đã ra Quân lệnh số 1, phát động tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào thông qua Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, phê chuẩn Lệnh tổng khởi nghĩa, thống nhất quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, chọn “Tiến quân ca” làm quốc ca, và cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức là Chính phủ Lâm thời cách mạng Việt Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng thời điểm đó, Người gửi thư kêu gọi toàn dân, nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Từ ngày 14/8/1945, tại nhiều địa phương, các cấp bộ Đảng và Việt Minh đã chủ động phát động khởi nghĩa trước khi nhận được lệnh chính thức, căn cứ vào tình hình cụ thể và tinh thần Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi: từ các huyện, xã vùng đồng bằng Bắc Bộ đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa… Chiều 16/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên - mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa. Cùng lúc, lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo phối hợp đánh chiếm các địa phương như Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An; ở miền Trung, lực lượng cách mạng tại Quảng Ngãi chiếm dinh tỉnh trưởng ngay trong đêm 16/8 - chính quyền tay sai sụp đổ không kịp trở tay.        Ngày 18/8/1945, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ - tạo khí thế bừng bừng khắp cả nước. Tại Hà Nội, chiều 17/8/1945, hàng vạn quần chúng từ nội, ngoại thành tham gia mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn, rồi tuần hành qua các phố trung tâm, hô vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập!”. Ngày 18/8/1945, cờ đỏ sao vàng rực rỡ trên nhiều tuyến phố chính. Đỉnh cao là ngày 19/8/1945: cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra với khí thế áp đảo. Các đội tự vệ chiến đấu và quần chúng cách mạng chiếm phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh…; chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta hoàn toàn làm chủ Thủ đô. Ở Huế, ngày 20/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Từ ngày 21/8/1945, hàng loạt cuộc biểu tình thị uy diễn ra, tạo thế áp đảo. Ngày 23/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, chiếm các công sở trọng yếu và giành chính quyền trong hòa bình. Tại Sài Gòn - Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là 25/8/1945. Sáng hôm đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố. Quần chúng chiếm lĩnh Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện, nhà ga, nhà máy điện… chính quyền bù nhìn nhanh chóng sụp đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập. Thắng lợi vang dội tại ba đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền đến hải đảo - phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão. Tại Côn Đảo - nơi từng được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi giam giữ hàng ngàn chiến sĩ cách mạng kiên trung - khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng và cuộc Tổng khởi nghĩa đang lan rộng trong cả nước, tổ chức Đảng trong nhà tù đã nhanh chóng họp bàn, tổ chức lực lượng, lãnh đạo tù nhân nổi dậy. Tại Phú Quốc, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt Minh, tù chính trị cùng quần chúng nhân dân trên đảo cũng vùng lên lật đổ chính quyền thân Nhật, thiết lập chính quyền cách mạng. Ở nhiều đảo khác như Lý Sơn, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Gai, Vân Đồn…, phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám cũng diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với các địa phương trên đất liền, thể hiện tinh thần yêu nước sục sôi, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng độc lập của toàn dân tộc. Các tổ chức Việt Minh, lực lượng tự vệ và quần chúng yêu nước đã nhanh chóng phát động các cuộc mít tinh, biểu tình, tước vũ khí của lính bảo an, chiếm các công sở và tuyên bố chính quyền về tay Nhân dân.         Chỉ trong vòng 15 ngày, từ giữa đến cuối tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt hoàn toàn chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm.        Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố quyền độc lập, tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam trước thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do và làm chủ vận mệnh đất nước. 3. Nguyên nhân thắng lợi        Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là sự kết hợp chặt chẽ giữa thời cơ lịch sử thuận lợi với sự chuẩn bị công phu, bài bản và sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt của Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trước hết, thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của Đảng. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng xác định phù hợp với nguyện vọng của đại đa số Nhân dân. Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và năng lực tổ chức thực tiễn xuất sắc khi chỉ đạo toàn dân nổi dậy đúng thời điểm, nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước với tinh thần: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Thứ hai, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thành quả của quá trình chuẩn bị lâu dài, toàn diện về chính trị, tổ chức, tư tưởng và lực lượng vũ trang. Từ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các cuộc vận động Dân chủ, Cao trào kháng Nhật cứu nước đến việc thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức các đội vũ trang, xây dựng căn cứ địa, mở rộng lực lượng quần chúng… Đảng đã dày công chuẩn bị để sẵn sàng chớp lấy thời. Việc chủ động phát động khởi nghĩa từng phần trước khi tổng khởi nghĩa cũng thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt trong chỉ đạo cách mạng. Thứ ba, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của tinh thần yêu nước, truyền thống bất khuất và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, đã nhất tề đứng dậy ở cả ba miền, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo. Đây là biểu hiện sinh động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, yếu tố nội sinh mang tính quyết định đối với thắng lợi của cách mạng. Thứ tư, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phát xít Đức và phát xít Nhật. Đảng ta đã đánh giá đúng thời cơ "ngàn năm có một" và phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. 4. Ý nghĩa lịch sử         Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi ấy đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm và lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị hàng thế kỷ ở nước ta, dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập - tự do; kỷ nguyên Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo. Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với lịch sử Việt Nam mà còn mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Thắng lợi ấy đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa và các lực lượng bị áp bức trên thế giới đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi đó, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập mà còn khẳng định vị thế và con đường phát triển của mình trong dòng chảy của lịch sử thế giới hiện đại. II. THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 80 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế         Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy cam go, thách thức. Chính quyền cách mạng còn non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài đan xen. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sáng suốt, kiên định của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường, bản lĩnh và trí tuệ sáng tạo, vững vàng vượt qua những ghềnh thác cam go của lịch sử. Giai đoạn 1945-1946, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: xây dựng chính quyền cách mạng và bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/01/1946 được tổ chức thành công, Quốc hội khóa I ra đời; Hiến pháp dân chủ đầu tiên được ban hành; chính quyền cách mạng không ngừng củng cố; các phong trào xóa nạn mù chữ, diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” được phát động sôi nổi; các thế lực phản cách mạng bị trấn áp. Trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta đánh bại từng bước các chiến lược của thực dân Pháp. Đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 - một bản anh hùng ca vĩ đại, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Tuy nhiên, sau đó đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Trước tình thế đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc - xây dựng hậu phương lớn cho cả nước, và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam - đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng ca của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Trải qua 21 năm trường kỳ, gian khổ và oanh liệt (1954 - 1975), Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hai miền đất nước giành thắng lợi từng bước trước các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế, thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, không ngừng chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày thống nhất, đất nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn to lớn. Một mặt, chúng ta phải khẩn trương khắc phục hậu quả nặng nề của hơn ba thập kỷ chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.        Trong khi kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nước ta còn phải đối mặt với tình trạng bị bao vây, cấm vận kéo dài từ bên ngoài; đồng thời, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp, làm phát sinh nhiều hạn chế, bất cập trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện đầy khó khăn ấy, Đảng vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước vượt qua trở lực, nhanh chóng khôi phục kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và chủ quyền quốc gia, tạo nền tảng để chuyển hướng chiến lược trong tư duy phát triển. Mười năm sau thống nhất (1975-1985) là giai đoạn đầy thử thách. Đó là thời kỳ Đảng ta từng bước tìm tòi con đường đổi mới, tư duy phát triển dần được hình thành từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu cũng như những khó khăn, hạn chế trong thời kỳ này đã để lại những bài học quý báu, đặt nền móng tư tưởng và thực tiễn cho công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng từ năm 1986. 2. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội       - Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường phát triển của mình Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện ngày 2/9/1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã chấm dứt vĩnh viễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc hội được Nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp năm 1946, xác lập nền tảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân - có đầy đủ tư cách đại diện cho đất nước trên trường quốc tế. Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội nghị Trung ương 24 (tháng 9/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Kết quả, ngày 25/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8 % tổng số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là “Tiến quân ca”, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên Thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị căn bản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân dân Việt Nam trên con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hùng cường.  - Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ        Ngay từ khi ra đời tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, nêu mục tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” để “tiến tới xã hội cộng sản”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930 chỉ rõ: cách mạng Việt Nam “bỏ qua giai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ ách thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - kỷ nguyên mà Nhân dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình. Tại Đại hội II (tháng 2/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên trình bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua hai thập kỷ chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp tục được củng cố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng 12/1986) khởi xướng đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong nước, đã tạo nền tảng cho tư duy mới về thời kỳ quá độ.        Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII (tháng 6/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình hoàn thiện về lý luận. Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh của phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.         Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện, tiếp tục khẳng định: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi mới đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành quả đổi mới gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước không ngừng nâng cao. Những kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình        Giai đoạn 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt Nam, đồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước. Trong bối cảnh vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được triển khai trong điều kiện hết sức khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc hậu, lệ thuộc, thành một nền kinh tế dân chủ, độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô hình kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế phù hợp với từng thời kỳ: từ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh (1955 - 1957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), rồi chuyển sang phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam trong điều kiện chiến tranh khốc liệt (1961 - 1975). Giai đoạn 1976 - 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân dân cả nước tích cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi phục sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém. Những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài, cùng những khó khăn từ bên ngoài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất cân đối, thậm chí có những biểu hiện của khủng hoảng nghiêm trọng.       Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Với việc từng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991-1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và bao vây cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 32 thế giới, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Thành quả ấy là minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững. - Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước         Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của Nhân dân về vai trò của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. - Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện       Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Nhận thức và quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện và phát triển thành một hệ thống nhất quán, với nội dung cốt lõi là: tăng trưởng kinh tế luôn phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Chính sách xã hội đúng đắn, nhân văn, vì hạnh phúc của Nhân dân được xác định không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta khẳng định rõ trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị và mọi người dân trong việc thực hiện và giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng xã hội hóa mạnh mẽ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, bảo đảm công bằng, hiệu quả và bền vững. Những định hướng này hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm, bền vững - nơi mọi người dân đều được bảo đảm an toàn về thu nhập, việc làm, sức khỏe, giáo dục, nhà ở và các dịch vụ cơ bản, qua đó khẳng định bản chất ưu việt của chế độ ta và củng cố niềm tin xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. - Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là tiền đề căn bản để giữ gìn thành quả cách mạng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc phát triển đất nước nhanh và bền vững. Đây cũng chính là một trong những thành tựu lớn nhất, toàn diện và bền vững nhất trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh trong suốt 80 năm qua.         Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự đồng lòng của toàn dân tộc, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, luôn giữ thế chủ động chiến lược, xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống phức tạp, nhạy cảm về quốc phòng - an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, trong các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, dân tộc, tôn giáo và quyền con người. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; môi trường hòa bình, ổn định lâu dài cho phát triển đất nước được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, được xây dựng đồng bộ, hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Năng lực phòng thủ của đất nước, nhất là tại các khu vực trọng yếu chiến lược, ngày càng được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng được củng cố, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.         Việt Nam kiên định đường lối quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng mang tính hòa bình, tự vệ, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đường lối ấy đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam, góp phần củng cố niềm tin chiến lược, tạo dựng hình ảnh một đất nước yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm và chủ động hội nhập, hợp tác quốc phòng - an ninh, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bằng sức mạnh tổng hợp. Đặc biệt, trước những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng (dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, khủng bố, an ninh mạng...), chúng ta đã nâng cao năng lực ứng phó, điều phối hiệu quả các nguồn lực, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân để giữ vững ổn định, củng cố niềm tin và tạo nền tảng vững chắc cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Thành tựu nổi bật trong bảo vệ Tổ quốc suốt 80 năm qua không chỉ là giữ gìn chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, mà còn là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ, đồng thời tạo thế và lực mới để Việt Nam hội nhập sâu rộng, nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của một dân tộc kiên cường, độc lập và sáng tạo trong thời đại mới. - Công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mềm dẻo, tranh thủ tối đa sự đồng tình của bạn bè quốc tế để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngoại giao Việt Nam kiên trì “lấy chính nghĩa thắng cường quyền”, khôn khéo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, tạo lập mặt trận dư luận rộng rãi ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta.        Từ đầu thập niên 1950, hoạt động đối ngoại được triển khai có hệ thống trên ba kênh bổ trợ lẫn nhau: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Cơ chế phối hợp liên hoàn ấy đã làm phong phú phương thức vận động quốc tế, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước sang thời kỳ đổi mới, trong bối cảnh trật tự thế giới biến chuyển sâu sắc, Đại hội VII (1991) xác lập phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” với tinh thần: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đại hội IX và các Đại hội sau tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc và hòa bình, hợp tác, phát triển làm điểm tương đồng. Nhờ kiên định đường lối ấy, Việt Nam đã bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ với các đối tác then chốt, gia nhập ASEAN, WTO, CPTPP và ký EVFTA, RCEP…; thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu; thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao với 194/194 nước thành viên Liên hợp quốc; thiết lập và nâng cấp nhiều mối quan hệ lên đối tác chiến lược và đối tác toàn diện; thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác sâu rộng với 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, toàn bộ G7 và 17/20 nước G20; khẳng định vai trò, uy tín trên các diễn đàn đa phương; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình; triển khai hiệu quả ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa…, góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa bình, bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaSau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đặt nền móng đầu tiên cho chế độ nhà nước kiểu mới ở nước ta - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.  Bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta - thể hiện rõ yêu cầu về một nhà nước dân chủ, pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đã được khẳng định ngay từ thời điểm đó: chủ quyền lập hiến thuộc về Nhân dân; bộ máy nhà nước phải là công cụ thực hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; cán bộ, công chức không được là “ông quan cách mạng” mà phải là “công bộc của dân”, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phục vụ. Pháp luật không phải công cụ trừng trị mà là phương tiện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Tư tưởng cốt lõi đó đã được Đảng kế thừa và từng bước hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã lần đầu tiên xác định những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chính thức đưa nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào văn kiện Đảng. Các Đại hội IX (2001), X (2006) tiếp tục khẳng định và bổ sung nội dung này.Đến Đại hội XI (năm 2011), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những định hướng này được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định rõ: xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.Qua các kỳ Đại hội, cùng với thực tiễn lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng được bổ sung, phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ tiếp thu các giá trị tiến bộ chung của nhân loại, mà còn mang những đặc trưng phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đầy đủ những nguyên lý căn bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ bản chất, nguyên tắc tổ chức, cơ cấu vận hành, phân công quyền lực nhà nước đến vai trò của pháp luật trong xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Nhận thức lý luận về mô hình nhà nước này ngày càng đầy đủ, thống nhất hơn. Hệ thống pháp luật được xây dựng ngày càng đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn. Vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được coi trọng trong hoạt động của cả hệ thống chính trị và đời sống xã hội.Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ ràng và hiệu quả hơn. Bộ máy nhà nước được tổ chức tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Chính phủ tích cực, chủ động trong điều hành, tập trung quản lý vĩ mô, cải cách hành chính, tháo gỡ điểm nghẽn, phục vụ phát triển đất nước. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh; các cơ quan tư pháp từng bước được hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong xét xử và thực thi công lý. Các quyền con người, quyền công dân được hiến định và ngày càng được cụ thể hóa bằng pháp luật và triển khai hiệu quả trên thực tế. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đóng góp thiết thực vào việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang ngày càng hoàn thiện, trở thành nền tảng vững chắc góp phần vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.III. PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 80 NĂM QUA, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VỮNG VÀNG TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN GIÀU MẠNH, VĂN MINH, THỊNH  VƯỢNGToàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết Trung ương mới nhất - trọng tâm là “ba đột phá chiến lược, sáu nhiệm vụ trọng tâm, mười hai nhóm giải pháp lớn” - nhằm đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa mọi nguồn lực, động lực, đặc biệt là khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để phát triển nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân; rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và vươn lên tầm nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.Việt Nam hôm nay bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc - với cơ hội và thách thức đan xen. Phát huy bài học quý báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “... xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cần giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khai thông mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của đất nước, trong đó:- Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông, huy động mọi nguồn lực tạo động lực phát triển bứt phá đất nước; bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hoàn thiện thể chế chính trị; với đổi mới, hoàn thiện thể chế xã hội, thể chế văn hóa và thể chế bảo vệ môi trường sinh thái, thể chế quốc phòng, an ninh và đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước.- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới đồng bộ phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập trung xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự có đức, có tài, ngang tầm nhiệm vụ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng và trong Nhà nước; tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố niềm tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất mới; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh xây dựng và thúc đẩy có hiệu quả chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Xây dựng chính phủ số, xã hội số.- Tập trung xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng cho phát triển lực lượng sản xuất mới, hiện đại; đẩy mạnh đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.- Phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ, căn bản, toàn diện, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh đổi mới phương thức quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt các chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.- Đẩy mạnh triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại; nâng tầm và phát huy vai trò đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân trong việc kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của đất nước.Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn, lật đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, đưa chính quyền về tay nhân dân. Đây là bước ngoặt vĩ đại, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề vùng lên tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Chỉ trong vòng nửa tháng, chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam.Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một thắng lợi vĩ đại của ý chí quật cường, khát vọng độc lập và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ trong vòng nửa tháng, toàn dân ta đồng loạt đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân, đập tan ách thống trị thực dân – phong kiến hàng trăm năm.80 năm trôi qua, những giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vẫn vẹn nguyên sức sống. Dưới ngọn cờ của Đảng, nhân dân ta đã kiên cường vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, y tế… Đời sống nhân dân không ngừng nâng cao, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định.Trải qua 80 năm, tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vẫn rực sáng, trở thành nguồn sức mạnh vô tận để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành nhiều thắng lợi to lớn trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường, hun đúc ý chí, bản lĩnh và khát vọng vươn lên của nhân dân Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển hôm nay, mỗi người dân Việt Nam càng tự hào, càng thấy rõ trách nhiệm tiếp nối và phát huy truyền thống anh hùng, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Bác Hồ kính yêu.Hôm nay, trong công cuộc hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta càng phải kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, sáng tạo, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để đất nước ta sánh vai cùng bè bạn năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bầu không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nô nức thi đua chào mừng Đại hội XIV của Đảng là dịp để chúng ta khắc sâu hơn nữa ý nghĩa lịch sử to lớn của những ngày mùa thu năm 1945 - khi dân tộc ta vùng lên giành lấy quyền làm người, làm chủ đất nước. Đó cũng là lời nhắc nhở về trách nhiệm hôm nay: tiếp nối tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc của cha ông, hun đúc bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đổi mới mạnh mẽ và sáng tạo không ngừng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng dựng xây một nước Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững trong kỷ nguyên mới. Mỗi chúng ta hãy bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với các thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu cho độc lập tự do của Tổ quốc; đồng thời biến lòng tự hào dân tộc thành hành động thiết thực, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam thân yêu, chúng ta nguyện đoàn kết một lòng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để non sông gấm vóc “nở hoa độc lập, kết trái tự do” mãi mãi trường tồn.Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại lịch sử mà còn là lời nhắc nhở mỗi chúng ta hãy sống và làm việc với tất cả trách nhiệm, lòng biết ơn và niềm tự hào, phải sống xứng đáng với truyền thống cha ông: Yêu nước – đoàn kết – sáng tạo – trách nhiệm. Đó cũng là lời nhắc nhở về trách nhiệm hôm nay: tiếp nối tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc của cha ông, hun đúc bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đổi mới mạnh mẽ và sáng tạo không ngừng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng dựng xây một nước Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững trong kỷ nguyên mới.80 năm đã trôi qua, nhưng những giá trị của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 vẫn còn nguyên vẹn. Đó là bài học quý báu về tinh thần đoàn kết, ý chí độc lập, tự chủ và khát vọng hòa bình. Phát huy tinh thần Cách mạng tháng Tám trong công cuộc đổi mới, ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập quốc tế. Để xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Vũ Dương tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tiếp tục học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng để chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị của cách mạng tháng 8, và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đồng thời nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc  vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm quý giá của cách mạng tháng tá,  trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc  vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế nhằm xây dựng xã Vũ Dương ngày càng trở nên giàu mạnh và hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

  • Đang truy cập12
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại13,630
  • Tổng lượt truy cập1,309,041

Khánh thành công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025-2030

Các đại biểu gắn biển khánh thành công trình.Dự lễ khánh thành có đồng chí Đoàn Thanh Hải, Phó Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh; đại diện Đảng ủy, HĐND, UBND thị trấn Yên Thịnh và đông đảo nhân dân địa phương...Thị trấn Yên Thịnh có 38 tổ dân phố, có 36 nhà văn hóa, trong đó có 2 cụm tổ dân phố đang sinh hoạt chung nhà văn hóa là tổ dân phố xóm Dò 2-Dò 3 và tổ dân phố Giữa Đông-Giữa Tây. Một số nhà văn hóa được đầu tư xây dựng đã lâu nên xuống cấp, một số hạng mục như mái, nền, hệ thống điện, bàn ghế đã hư hỏng không đảm bảo cho việc sinh hoạt, tổ chức các hoạt động. Nguồn kinh phí của địa phương còn hạn hẹp nên chưa đầu tư kịp thời.Được sự quan tâm của Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh, công trình sửa chữa, nâng cấp Nhà Văn hóa tổ dân phố Giữa Đông-Giữa Tây được triển khai từ tháng 5/2025. Với sự vào cuộc tích cực của các tổ chức đoàn thể và bà con nhân dân trong khu dân cư, đến nay 100% các hạng mục đã hoàn thành với tổng chi phí 170 triệu đồng. Trong đó, Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh ủng hộ 100 triệu đồng; thị trấn Yên Thịnh ủng hộ 25 triệu đồng, còn lại do nhân dân đóng góp.Công trình hoàn thành đưa vào sử dụng là nơi sinh hoạt cộng đồng, tổ chức hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần xây dựng nếp sống văn minh, đoàn kết trong khu dân cư.Lãnh đạo Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh trao biểu trưng số tiền ủng hộ tổ dân phố.Phát biểu tại lễ khánh thành công trình, lãnh đạo Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh đề nghị các tổ dân phố và địa phương tiếp tục giữ gìn, khai thác hiệu quả công trình, để nhà văn hóa thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt chính trị, văn hóa, văn nghệ, TDTT, phục vụ đắc lực cho việc phát triển văn hóa-xã hội của khu dân cư và địa phương.

Tuyên truyền về công tác bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng

           Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, internet và các thiết bị di động có tác động tích cực mọi mặt trong đời sống nói chung và đối với trẻ em nói riêng. Internet giúp trẻ tiếp cận, cập nhật thông tin tích cực phục vụ học tập, vui chơi giải trí và các hoạt động kỹ năng sống…         Tuy nhiên, khi trẻ em tương tác trên internet cũng có thể tiếp cận thông tin không phù hợp, ảnh hưởng đến nhận thức, hành động lệch lạc, thậm trí ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng. Tính đến đầu năm 2025, Việt Nam có khoảng 76,2 triệu người dùng mạng xã hội, theo CleverAds. Con số này chiếm hơn 103,5% dân số trên 18 tuổi, cho thấy nhiều người có nhiều hơn một tài khoản mạng xã hội. Trong đó, 51,2% tài khoản thuộc về nữ giới, 48,8% thuộc về nam giới. 95,4% tổng số người dùng internet tại Việt Nam (không phân biệt độ tuổi) sử dụng ít nhất một nền tảng mạng xã hội, Cũng theo CleverAds. khỏe và Dân số cho rằng gần 36,5% trẻ em đã phải trải nghiệm các thông tin, hình ảnh liên quan đến bạo lực trên internet, hơn 13% trẻ em buộc phải tiếp xúc không mong muốn với các tài liệu khiêu dâm.Xâm hại trẻ em trên mạng là một vấn đề ngày càng nghiêm trọng, với nhiều hình thức đa dạng và tinh vi.          1. Các hình thức xâm hại trẻ em trên mạng bao gồm:          - Bắt nạt qua mạng là một hình thức xâm hại tinh thần phổ biến nhất mà trẻ em phải đối diện khi tham gia các hoạt động trực tuyến. Trẻ em có thể bị bắt nạt thông qua tin nhắn thô lỗ, các bình luận có tính chất ác ý chế nhạo xúc phạm; phát tán thông tin sai sự thật, hình ảnh nhạy cảm; kẻ bắt nạt tạo các tài khoản giả mạo để tấn công nhân cách và danh dự của trẻ. Trẻ bị bắt nạt qua mạng thường rơi vào trạng thái lo lắng, căng thẳng, mất tự tin, xa lánh gia đình, bạn bè, người thân dẫn đến nguy cơ trầm cảm hoặc rối loạn hành vi, tâm lý, gây thiếu tập trung kết quả học tập sa sút, tự hủy hoại bản thân, thậm chí tự tử…          - Lạm dụng lòng tin là một hình thức xâm hại tinh vi khó phát hiện. Kẻ xấu giả danh làm bạn bè, người thân quen thường xuyên nói chuyện, chia sẻ sở thích sau khi đã có được sự tin tưởng, chúng bắt đầu yêu cầu trẻ thực hiện các hành vi không lành mạnh; hoặc giả danh người lớn, người có thẩm quyền như giáo viên, công an… tạo sự tin cậy, uy tín để ép buộc trẻ làm theo yêu cầu. Trẻ bị lạm dụng lòng tin có thể gặp các vấn đề tâm lý nghiêm trọng như: mất niềm tin vào người khác, cảm giác bị phản bội, lo sợ mọi mối quan hệ đều tiềm ần nguy cơ bị xâm hại; một số trường hợp có thể rơi vào trạng thái lo lắng kéo dài, mất ngủ và ảnh hưởng tiêu cực đến học tập và các hoạt động khác.          - Tấn công bằng phần mềm độc hại. Phần mềm độc hại có thể ẩn mình trong các đường dẫn, tệp đính kèm hoặc các ứng dụng không rõ nguồn gốc. Sau khi cài đặt phần mềm hoặc mở đường dẫn phần mềm gián điệp có thể ghi lại các hoạt động của trẻ trên mạng như truy cập các trang web, tin nhắn, mật khẩu, thông tin tài khoản, làm hỏng thiết bị hoặc mã hóa các tệp rồi yêu cầu tiền chuộc để khôi phục quyền truy cập.          - Gạ gẫm qua mạng là quá trình kẻ xấu tiếp cận, thiết lập mối quan hệ với trẻ thông qua mạng để đạt mục đích lợi dụng tình dục.          - Tống tiền trực tuyến là hành vi mà kẻ xấu đe dọa, yêu cầu trẻ phải thực hiện một số hành động, cung cấp thông tin, tài sản của gia đình. Đồng thời đe dọa trẻ cấm tiết lộ thông tin, tài sản mà chúng đã chiếm đoạt.          2. Các dấu hiệu nhận biết trẻ em có nguy cơ bị xâm hại trên không gian mạng          - Thay đổi hành vi và tâm lý: Trẻ có thể khó chịu, giận dữ, căng thẳng, lo lắng hoặc bồn chồn mà không giải thích được nguyên nhân; tránh các hoạt động mà trước đây thích thú; lo sợ khi nhận tin nhắn hoặc thông báo và thường cố gắng giấu diếm các thiết bị của mình trước người lớn; trẻ thường có xu hướng cô lập thu mình  ngại giao tiếp với gia đình, bạn bè hoặc cảm thấy không thoải mái trong các tình huống xã hội…          - Thay đổi thói quen sử dụng internet          + Sử dụng quá mức hoặc thay đổi đột ngột thói quen internet. Đặc biệt vào ban đêm hoặc những thời điểm mà trước đó trẻ thường không online hoặc vào các trang website lạ. Điều này có thể liên quan đến việc trẻ đang tham gia vào các cuộc trò chuyện không phù hợp hoặc bị kéo vào các hoạt động xâm hại trực tuyến.          + Sử dụng các tài khoản mới hoặc ứng dụng mới. Kẻ xâm hại khuyến khích trẻ sử dụng những nền tảng ít phổ biến để giảm sự chú ý của người lớn. Trẻ đột nhiên cài đặt và sử dụng các ứng dụng tin nhắn, mạng xã hội mới mà không giải thích rõ ràng.          3. Phòng ngừa xâm hại trẻ em trên không gian mạng          Phòng ngừa xâm hại trẻ em trên không gian mạng không chỉ là trách nhiệm của riêng trẻ em mà còn là trách nhiệm của cha mẹ, giáo viên và toàn bộ xã hội.          - Tăng cường giáo dục và nhận thức cho trẻ. Trẻ cần được trang bị những kiến thức cơ bản về sự an toàn khi sử dụng internet và nhận thức rõ những nguy cơ có thể xảy ra:          + Dạy trẻ về sự riêng tư và thông tin cá nhân, không chia sẻ thông tin cá nhân như địa chỉ nhà, tên trường, lớp học, số điện thoại hay bất kỳ thông tin nào khác có thể xác định vị trí của mình trên mạng; thiết lập quyền riêng tư trên các tài khoản mạng xã hội.          + Giúp trẻ hiểu về các mối đe dọa tiềm ẩn          + Khuyến khích trẻ chia sẻ khi gặp tình huống đáng ngờ          - Thiết lập các biện pháp kỹ thuật bảo vệ trẻ          + Sử dụng phần mềm giám sát và kiểm tra như parental control, Qustodio, Norton Family… cho phép cha, mẹ theo dõi các trang web mà trẻ truy cập, thời gian sử dụng internet, và hạn chế truy cập các nội dung không phù hợp…          + Thiết lập các cài đặt bảo vệ trên các thiết bị của trẻ. Hướng dẫn trẻ cài đặt quyền riêng tư trên các tài khoản mạng xã hội, đặt mật khẩu mạnh, hạn chế chia sẻ vị trí, các thông tin cá nhân; chỉ kết bạn với những người mà chúng ta biết rõ ngoài đời thực.          + Hạn chế thời gian sử dụng internet và giám sát nội dung truy cập.          - Phát triển mối quan hệ mở giữa trẻ và cha mẹ. Mối quan hệ gần gũi và tin tưởng giữa cha mẹ và con cái là một trong những cách hiệu quả nhất để bảo vệ trẻ khỏi các mối đe dọa trên mạng.          + Thường xuyên thảo luận về các vấn đề an toàn trên mạng. Cha mẹ tạo ra các cuộc trò chuyện cởi mở và không phán xét về các vấn đề liên quan đến internet, từ đó khuyến khích trẻ chia sẻ những trải nghiệm và lo lắng của mình.          + Không chỉ trích hoặc trách mắng khi trẻ gặp rắc rối.          + Xây dựng nguyên tắc sử dụng internet cùng trẻ: Thiết lập các quy tắc về thời gian sử dụng internet, các trang web được phép truy cập, hành vi khi tương tác với người lạ. Đồng thời giải thích rõ tại sao các quy tắc này là cần thiết và thảo luận cùng trẻ về hậu quả khi không tuân thủ.          - Tăng cường hợp tác giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng. Việc bảo vệ trẻ khỏi xâm hại trên không gian mạng cần sự hợp tác chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng. Các tổ chức giáo dục và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và tạo ra môi trường mạng an toàn cho trẻ.          4. Xử lý khi trẻ bị xâm hại trên không gian mạng          Khi trẻ bị xâm hại trên không gian mạng, việc xử lý tình huống kịp thời và hiệu quả là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của trẻ và ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng hơn. Quá trình xử lý này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, các cơ quan chức năng và các tổ chức bảo vệ trẻ em. Dưới đây là các bước cần thực hiện khi phát hiện trẻ bị xâm hại trên mạng.          ­- Nhận diện dấu hiệu xâm hại và khuyến khích trẻ chia sẻ. Gia đình, các thầy cô giáo và những người có trách nhiệm cần tạo môi trường an toàn để trẻ có thể chia sẻ những trải nghiệm xấu của mình mà không sợ bị trách móc hay phạt. Trẻ cần thấy được sự hỗ trợ từ người lớn, khi đó mới dễ dàng bày tỏ những khó khăn.          - Đảm bảo sự an toàn của trẻ ngay lập tức          + Ngừng sử dụng thiết bị và xóa các thông tin liên quan          + Trẻ cần được chăm sóc, an ủi ngay khi xảy ra sự việc; trẻ cần phải rời khỏi môi trường mạng xã hội để giảm căng thẳng.          - Thông báo cho các cơ quan chức năng          + Tùy theo mức độ của sự việc, phụ huynh hoặc nhà trường cần báo cáo ngay với công an hoặc tổ chức bảo vệ trẻ em.          + Báo cáo nhà cung cấp dịch vụ mạng như Zalo, Facebook, YouTube          - Tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho trẻ          - Cung cấp thông tin và giáo dục lại về an toàn trên mạng.